Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN

Thứ tư - 16/08/2017 09:37 9.837 0

Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN

Năm 2003, ASEAN đã quyết định thúc đẩy Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) (sau này đổi thành Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC)), với tư cách là một trong 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN
 I. Giới thiệu chung về Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC)
 
1. Quá trình hình thành trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN:
 
Năm 2003, ASEAN đã quyết định thúc đẩy Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) (sau này đổi thành Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC)), với tư cách là một trong 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN. Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN có nền tảng là những thành quả hợp tác chính trị-an ninh mà ASEAN đã đạt được kể từ khi Hiệp hội được thành lập năm 1967. 
 
ASEAN được thành lập với mục tiêu được đề ra trong Tuyên bố Băng-cốc 1967 là tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá-xã hội giữa các nước thành viên. Hợp tác chính trị không được nêu ra, nhưng Tuyên bố đã đề cập đến một số nhân tố liên quan đến chính trị-an ninh khu vực. Tuyên bố Băng-cốc nói rõ “ các nước Đông Nam Á có trách nhiệm chính trong việc tăng cường ổn định kinh tế và xã hội của khu vực và bảo đảm sự phát triển của đất nước một cách hoà bình và tiến bộ; và rằng các nước này quyết tâm bảo đảm sự ổn định và an ninh của mình không có sự can thiệp từ bên ngoài dưới bất cứ hình thức hoặc biểu hiện nào nhằm gìn giữ bản sắc dân tộc của mình phù hợp với những lý tưởng và nguyện vọng của nhân dân mình; khẳng định rằng sự tồn tại của tất cả các căn cứ nước ngoài là tạm thời và chỉ được duy trì với sự tán thành công khai của các nước hữu quan và không được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để lật đổ nền độc lập dân tộc và tự do của các quốc gia trong khu vực hoặc làm phương hại đến các quá trình phát triển trong trật tự của các quốc gia này”.  Xét bối cảnh ra đời, có thể nói ASEAN là một tổ chức hợp tác khu vực được lập ra để bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế của mỗi thành viên cũng như Hiệp hội, đối phó với sự tranh giành giữa các nước lớn và giúp giải quyết tranh chấp giữa các nước trong khu vực. Mặt khác, sự ra đời của ASEAN đã thể hiện sự phát triển của ý thức khu vực. Trên thực tế, cho tới cuối những năm 80, hợp tác chính trị là lĩnh vực nổi bật và đạt được những tiến triển đáng kể hơn cả.
 
Trong thập kỷ đầu tồn tại, hợp tác ASEAN hầu như không có gì đáng kể, thậm chí không có cuộc họp Cấp cao nào và cũng không có Ban Thư ký của Hiệp hội. Tuyên bố về Khu vực Hoà bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN) năm 1971 là hành động hợp tác chính trị quan trọng đầu tiên của ASEAN. Với bối cảnh quan hệ căng thẳng giữa các nước thành viên khi đó do những tranh chấp lịch sử để lại, cũng như sự tan vỡ nhanh chóng của các tổ chức hợp tác khu vực được lập ra trước đó, có thể nói thành tựu quan trọng nhất của ASEAN trong giai đoạn này là đã giúp ngăn chặn sự bùng nổ xung đột, cải thiện và tăng cường quan hệ giữa các nước thành viên, tạo dựng ý thức và thói quen về hợp tác khu vực.
 
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất ở Bali tháng 2/1976 cùng với việc ký hai văn kiện quan trọng là Tuyên bố Hoà hợp c ASEAN và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam A (TAC), đã đánh dấu sự chuyển biến cơ bản của ASEAN, chính thức khẳng định sự hợp tác chính trị của ASEAN. Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN đã đề ra các nguyên tắc, khuôn khổ và hình thức cho hợp tác ASEAN trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và chuyên ngành. Đáng chú ý là Tuyên bố về sự hoà hợp của ASEAN khẳng định rõ các nước thành viên sẽ tiếp tục hợp tác an ninh - quân sự trên cơ sở không phải ASEAN. Trong suốt thập kỷ 80, hoạt động của ASEAN tập trung vào việc tìm giải pháp hoà bình cho vấn đề Campuchia và ASEAN được biết đến rộng rãi như là một cộng đồng ngoại giao.
 
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 tại Xin-ga-po tháng 1/1992 đánh dấu giai đoạn phát triển mới của ASEAN lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm, nhưng đồng thời cũng mở rộng sự hợp tác của ASEAN sang lĩnh vực an ninh. Tuyên bố Cấp cao Xing-ga-po khẳng định “ASEAN sẽ tìm kiếm các hình thức cho các nước thành viên tham gia vào lĩnh vực hợp tác mới về các vấn đề an ninh”. Các vị đứng đầu Chính phủ các nước ASEAN còn quyết định xúc tiến một tiến trình đối thoại đa phương trong khu vực về hợp tác an ninh trên cơ sở sử dụng những cơ chế sẵn có như Hội nghị sau Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (AMM-PMC).  Trên cơ sở này, trong thập kỷ 90, ASEAN đã đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực chính trị - an ninh và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trong đó có việc thành lập và thúc đẩy Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), ký Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), ra Tuyên bố Manila về tình hình biển Đông (1995), tăng cường sự phối hợp giữa ASEAN với LHQ về vấn đề chính trị-an ninh ...
 
Bước sang thế kỷ 21, và đặc biệt từ sau sự kiện 11/9, ASEAN phải đối mặt với những thách thức an ninh ngày càng gia tăng, cả truyền thống và phi truyền thống. Trước tình hình này, các nước ASEAN đã nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác chính trị và an ninh để ứng phó hiệu quả với các thách thức, duy trì môi trường khu vực hòa bình, ổn định thuận lợi cho tăng cường liên kết kinh tế và hợp tác khu vực,.
 
Sáng kiến thành lập Cộng đồng An ninh ASEAN đã ra đời trong bối cảnh này. Tài liệu khái niệm “Tiến tới một Cộng đồng An ninh ASEAN” được In-đô-nê-xia đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị các Quan chức cao cấp (SOM) ASEAN tháng 4/2003 với lý giải là nhằm bảo đảm cân bằng giữa hợp tác kinh tế và chính trị trong ASEAN (trước đó Singapore đang thúc đẩy mạnh mẽ ý tưởng lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN), biến ASEAN từ cơ chế “quản lý xung đột” sang “giải quyết xung đột” bằng việc phát huy các thể chế đã có như Hội đồng Tối cao TAC, thúc đẩy “bản sắc tập thể”, xây dựng “ý thức cộng đồng” và mỗi thành viên là bộ phận trong gia đình lớn ASEAN. In-đô-nê-xia cũng cho rằng hạn chế trong khả năng giải quyết xung đột là do sự viện dẫn cứng nhắc phương thức ASEAN, nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp và ASEAN vẫn ngần ngại khi đối mặt thực tế với các vấn đề của mình.
 
Ý tưởng của Indonesia được các nước đánh giá khá tích cực do xuất phát từ lợi ích và nhu cầu thực sự của cả Hiệp hội. Tuy nhiên, các nước đều cho rằng nội dung cụ thể của sáng kiến còn khá "táo bạo" đối với ASEAN và cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế hợp tác ASEAN và chính sách của mỗi nước thành viên. Theo đó, các nước ASEAN đã cùng bàn thảo, điều chỉnh và đi đến thống nhất về xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN, cùng với Cộng đồng Kinh tế ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-xã hội ASEAN, tạo thành ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN.
 
Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) được các Lãnh đạo ASEAN ký tại Cấp cao ASEAN lần thứ 9 (tháng 10/2003), xác định mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020, trong đó, Cộng đồng An ninh là một trụ cột. Tuyên bố Bali II khẳng định Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) không phải là một khối quân sự, không phải là liên minh quân sự hay có chính sách đối ngoại chung. ASC là một cộng đồng an ninh tự nguyện có mức độ hội nhập cao hơn hiện trạng, dựa trên nguyên tắc “an ninh toàn diện”, khẳng định lại các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhấn mạnh nguyên tắc bao trùm là không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Hợp tác về an ninh sẽ được tiến hành trên cơ sở tiệm tiến, bước đi phù hợp với các bên, với các nội dung chính là tăng cường đoàn kết và hợp tác, phát huy và tận dụng hiệu quả các cơ chế hiện có để giải quyết tranh chấp như Tuyên bố ZOPFAN, TAC, cơ chế Hội đồng tối cao TAC và Hiệp ước SEANWFZ, Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), tăng cường hợp tác về biển, đấu tranh chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, mở rộng tham vấn, hợp tác với các đối tác bên ngoài, LHQ và các tổ chức quốc tế, khu vực khác đóng góp cho hòa bình và ổn định ở khu vực.
 
Để triển khai cụ thể, ASEAN đã tiến hành xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Cộng đồng An ninh ASEAN. Dự thảo Kế hoạch hành động đầu tiên do Inđônêxia đưa ra tại Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN (Jakarta, ngày 13/2/2004) có chứa đựng nhiều ý tưởng và biện pháp táo bạo, như đề cập khả năng lập một lực lượng gìn giữ hòa bình ở Đông Nam Á; xây dựng Hiến chương ASEAN về nhân quyền, lập cơ chế nhân quyền khu vực… Dự thảo cũng đặt lộ trình chi tiết các bước triển khai từng vấn đề trong giai đoạn 2005 đến 2020 – thời điểm ASEAN đặt mục tiêu hoàn thành Cộng đồng ASEAN. Hội nghị hẹp các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (Hạ Long, tháng 3/2004) nhất trí cần tránh đi “quá xa, quá nhanh, quá lý tưởng và quá nhạy cảm”.  Hội nghị đã đạt được thỏa thuận về những nguyên tắc và phương hướng lớn khi xây dựng KHHĐ thực hiện ASC, theo đó quá trình xây dựng ASC cần phải tính tới thực tế của ASEAN; cách tiếp cận cần thực dụng, tiệm tiến và tập trung vào những hoạt động khả thi; Cộng đồng an ninh ASC cần tôn trọng mức độ hội nhập của các thành viên; các bước đi cần phải thoải mái, tránh gò ép và đề nghị bỏ lộ trình, cho rằng việc đặt lộ trình cứng nhắc cho các hoạt động sẽ tự gây sức ép cho bản thân ASEAN.    
 
KHHĐ thực hiện ASC được các nhà Lãnh đạo ASEAN chính thức thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 tại Viên-chăn, Lào tháng 11/2004, cùng với các KHHĐ thực hiện AEC và ASCC.  Nội dung của KHHĐ gồm 6 phần: (i) hợp tác chính trị; (ii) xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử; (iii) ngăn ngừa xung đột; (iv) giải quyết xung đột; (v) kiến tạo hòa bình sau xung đột; và (vi) cơ chế thực hiện, kèm theo là danh mục gồm 75 lĩnh vực/ hoạt động để xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN.  KHHĐ không phải văn kiện bất biến mà mang tính “mở”, và sẽ được sửa đổi và bổ sung thường xuyên để thích ứng với những biến chuyển mới ở khu vực và thế giới.  KHHĐ cũng không quy định về lộ trình thực hiện cụ thể đối với các hoạt động được nêu, nhờ đó tạo sự linh hoạt cần thiết, giảm thiểu mức độ cảm giác bị ràng buộc và cam kết trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch hành động. Việc triển khai KHHĐ thực hiện APSC trong giai đoạn 2004-2010 đã được cụ thể hóa bằng những chương trình, hoạt động cụ thể nêu trong hợp phần về ASC của Kế hoạch hành động Viên-chăn, cũng được thông qua tại Cấp cao ASEAN lần thứ 10, tháng 11/2004.
 
Bước sang năm 2007, dưới ánh sáng của những chuyển biến mới sau khi Hiến chương ASEAN được ký kết và trên cơ sở những thành quả đạt được trong triển khai Kế hoạch hành động thực hiện ASC và Chương trình hành động Viên chăn, ASEAN đã quyết định xây dựng tiếp Kế hoạch tổng thể thực hiện Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC Blueprint). 
 
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 14, tháng 3/2009, các Lãnh đạo ASEAN đã ký Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN giai đoạn 2009-2015, bao gồm các Kế hoạch tổng thể về từng trụ cột chính trị-an ninh, kinh tế, và văn hóa xã hội, cùng với Khuôn khổ chiến lược và Kế hoạch công tác Sáng kiến Liên kết ASEAN giai đoạn II. Tiếp nối và phát huy các kết quả đạt được trong thực hiện Kế hoạch hành động về ASC và Chương trình hành động Viên-chăn, Kế hoạch tổng thể về APSC đã cụ thể hóa mục tiêu, nội dung và các thành tố của APSC, đề ra các chương trình, biện pháp cụ thể cũng như lộ trình thực hiện hướng tới mục tiêu hoàn thành APSC.
 
2. Mục tiêu và lĩnh vực hợp tác của Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN:   
 
2.1. Mục tiêu: Cộng đồng Chính trị An ninh ASEAN nhằm nâng hợp tác chính trị, an ninh lên một tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp của các đối tác bên ngoài, nhằm bảo đảm cho các nước ASEAN chung sống hòa bình với nhau và với thế giới bên ngoài trong một môi trường công bằng, dân chủ và hòa hợp. Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN không phải là một khối quân sự, không nhằm tới một liên minh quân sự hay có chính sách đối ngoại chung. Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN sẽ thúc đẩy cách tiếp cận toàn diện về an ninh, gồm cả các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường; tăng cường hợp tác chính trị, xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử chung; thúc đẩy xu hướng không sử dụng vũ lực và giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; rộng mở quan hệ với các đối tác bên ngoài và giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.
 
Theo Kế hoạch tổng thể thực hiện APSC, Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN, khi hoàn thành, sẽ gồm 3 đặc điểm chính:
 
- Một Cộng đồng hoạt động theo luật lệ trên cơ sở các giá trị và chuẩn mực chung;
 
- Một Khu vực gắn kết, hòa bình, ổn định và tự cường, chia sẻ tránh nhiệm vì một nền an ninh toàn diện;
 
- Một khu vực năng động, rộng mở với bên ngoài trong một khu vực ngày càng liên kết chặt chẽ và tùy thuộc lẫn nhau.
 
2.2. Các lĩnh vực hợp tác:
 
Đề hoàn thành mục tiêu Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN với các đặc điểm nêu trên, các nước ASEAN sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực sau:
 
(i) Hợp tác chính trị: với các nội dung chính là tăng cường giao lưu, trao đổi thông tin giữa nhân dân các nước, nâng cao hiểu biết về lịch sử, xã hội, thể chế chính trị của từng nước ASEAN, nâng cao sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng Cộng đồng, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về quản trị tốt, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thực hành dân chủ và phòng chống tham nhũng. Một số biện pháp cụ thể gồm: tổ chức hội thảo và các khóa đào tạo, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm, xuất bản ấn phẩm, đẩy mạnh các chương trình giao lưu báo chí, cung cấp học bổng nghiên cứu về các nước ASEAN, xây dựng giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học, liên kết giữa các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học…
 
(ii) Xây dựng và chia sẻ chuẩn mực: ASEAN quy định và bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực ứng xử chung vì đoàn kết và hợp tác ở khu vực, thông qua việc củng cố và phát huy các công cụ chính trị như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và các văn kiện then chốt khác. Một số biện pháp hợp tác cụ thể bao gồm: tiếp tục khuyến khích các nước ngoài ASEAN tham gia TAC nhằm tăng cường vai trò của Hiệp ước như là bộ quy tắc ứng xử điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực; bảo đảm tuân thủ, thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC và hướng tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khuyến khích các nước có vũ khí hạt nhân cam kết tôn trọng Hiệp ước SEANWFZ, sớm tham gia Nghị định thư của Hiệp ước để củng cố hiệu lực của Hiệp ước; tăng cường hợp tác ASEAN về biển, trong đó có việc lập Diễn đàn Biển ASEAN…  
 
(iii) Ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin: nhằm giảm nhẹ căng thẳng, ngăn ngừa xung đột mới nảy sinh cũng như ngăn các tranh chấp chưa được giải quyết bùng phát thành xung đột, các nước ASEAN sẽ tăng cường hợp tác với nhau và với các đối tác bên ngoài trong những lĩnh vực: xây dựng lòng tin; nâng cao minh bạch và chia sẻ thông tin về chính sách an ninh-quốc phòng; đẩy mạnh tiến trình ARF; bảo đảm cam kết tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của các nước thành viên; và tạo khuôn khổ cho hợp tác giữa các lực lượng quốc phòng, an ninh của các nước ASEAN. Một số biển pháp triển khai cụ thể bao gồm: tổ chức giao lưu, trao đổi giữa các quan chức quốc phòng; mời quan sát viên tới các cuộc tập trận; xuất bản Tài liệu Viễn cảnh An ninh ASEAN; tiến hành tham vấn và hợp tác về các vấn đề quốc phòng với các đối tác, thông qua khuôn khổ ADMM+; tổ chức trao đổi về hợp tác trong ứng phó với các thách thức với toàn vẹn lãnh thổ của các nước ASEAN…
 
(iv) Giải quyết hòa bình xung đột và tranh chấp: ASEAN sẽ tiếp tục củng cố các công cụ, khuôn khổ chính trị ở khu vực, trong đó có Hiệp ước TAC, để bảo đảm mọi tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên, cũng như giữa các nước thành viên với bên ngoài, phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình; đồng thời tăng cường hợp tác, nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm hòa bình, quản lý xung đột ở khu vực. Một số biện pháp triển khai cụ thể gồm: củng cố và vận dụng hiệu quả các phương thức hiện có giải quyết hòa bình xung đột, đồng thời nghiên cứu, bổ sung các phương thức mới, trong đó có xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp, gồm cả thông qua hình thức trọng tài, trung gian, hòa giải; tăng cường nghiên cứu, tổng kết các bài học, kinh nghiệm về hòa bình, hòa giải, quản lý và giải quyết xung đột; chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về hoạt động gìn giữ hòa bình…
 
(v) Kiến tạo hòa bình sau xung đột: đây là lĩnh vực hợp tác mới, với các nội dung như tăng cường cứu trợ nhân đạo cho người dân vùng có xung đột, giúp phát triển nguồn nhân lực tại các khu vực xung đột, hợp tác về hòa giải và thúc đẩy các giá trị hòa bình. Trên thực tế, với những thành quả đạt được trong duy trì hòa bình, an ninh ở khu vực, ASEAN chưa cần triển khai các biện pháp hợp tác thuộc lĩnh vực này.
 
(vi) An ninh phi truyền thống: ASEAN đã và đang tăng cường hợp tác trong ứng phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là khủng bố và các loại tội phạm xuyên quốc gia như buôn bán người, ma túy, các nhóm tội phạm có tổ chức hoạt động xuyên biên giới, buôn bán vũ khí, tội phạm mạng, cướp biển, tăng cường hợp tác bảo đảm an ninh biên giới. Những biện pháp triển khai cụ thể tập trung vào chia sẻ thông tin nghiệp vụ; đào tạo nâng cao năng lực; hợp tác về tư pháp, dẫn độ; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan; triển khai hiệu quả các tuyên bố, kế hoạch hành động trong từng lĩnh vực cụ thể, trong đó có Công ước ASEAN về Chống khủng bố…
 
(vii) Quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp: là khu vực thường xuyên chịu nhiều thảm họa, thiên tai, ASEAN rất coi trọng hợp tác trong lĩnh vực này. Các biện pháp hợp tác cụ thể bao gồm: nâng cao hiệu quả cảnh báo sớm, tăng cường hợp tác quân-dân sự khi có thiên tai, đơn giản hóa thủ tục cho việc các nước ASEAN cung cấp cứu trợ tới các vùng bị ảnh hưởng trong khu vực, tăng cường phối hợp giữa các khuôn khổ hợp tác khu vực như của ASEAN+3, EAS và ARF…
 
(viii) Ứng phó kịp thời với các vấn đề khẩn cấp hay tình hình khủng hoảng ảnh hưởng tới ASEAN: hợp tác trong lĩnh vực này chủ yếu thể hiện ở việc ASEAN cùng lên tiếng bày tỏ quan tâm khi có những vấn đề ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh khu vực, hoặc các diễn biến lớn tác động sâu sắc tới cục diện quốc tế. Ngoài ra, các nước ASEAN cũng cam kết hỗ trợ cho công dân của nhau ở nước thứ ba nếu có tình hình khủng hoảng, như trường hợp Lybia trong năm 2011.
 
(ix) Tăng cường quan hệ với bên ngoài: ASEAN đã và đang thúc đẩy các quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác bên ngoài, để tranh thủ các đối tác đóng góp vào hòa bình, an ninh ở khu vực và hỗ trợ ASEAN xây dựng Cộng đồng, trong đó có trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh. Đồng thời, ASEAN sẽ nỗ lực duy trì và củng cố vai trò trung tâm trong cấu trúc hợp tác ở khu vực.
 
Ngoài ra, ASEAN sẽ tiếp tục tham vấn và hợp tác về các vấn đề đa phương cùng quan tâm tại LHQ và các diễn đàn quốc tế khác.
 
 
 
II. Các khuôn khổ và lĩnh vực hợp tác chính trị-an ninh trong ASEAN
 
1. Hợp tác về chính trị-an ninh:
 
1.1. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM):
 
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) là cơ chế đầu tiên của ASEAN, được thành lập cùng với thời điểm ra đời của ASEAN năm 1967.Hội nghị AMM họp định kỳ hàng năm, thông thường trong tháng 7, do nước Chủ tịch ASEAN đương nhiệm chủ trì và đăng cai. Ngoài ra, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN còn họp Hội nghị không chính thức (IAMM) dịp Khóa họp thường niên Đại hội đồng Liên hợp quốc, họp bên lề các Hội nghị Cấp cao ASEAN thường kỳ; trong trường hợp cần thiết, các Bộ trưởng có thể họp các Hội nghị không chính thức khác, Hội nghị hẹp (AMM Retreat) và Hội nghị đặc biệt. Tính đến tháng 7/2011, đã diễn ra 44 Hội nghị AMM thường niên, và hàng chục các Hội nghị hẹp, Hội nghị không chính thức. Giúp việc cho các Bộ trưởng Ngoại giao là cơ chế Hội nghị các Quan chức cao cấp (SOM).
 
Hội nghị AMM là một trong những cơ chế chủ chốt của ASEAN, không chỉ về chính trị-an ninh. Trước khi có Hiến chương, Hội nghị AMM còn thực thi chức năng, nhiệm vụ của cả Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) và Hội đồng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC). Sau khi Hiến chương ASEAN đi vào hiệu lực và bộ máy, tổ chức của ASEAN được sắp xếp lại, Hội nghị AMM được đặt dưới Hội đồng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN, chuyển hầu hết các công việc mang tính điều phối cho các Hội đồng mới được thành lập, và tập trung vào các vấn đề hòa bình, an ninh khu vực, các vấn đề liên quan về xây dựng Cộng đồng và triển khai Hiến chương, các lĩnh vực chính trị-an ninh cụ thể như hợp tác chính trị, xây dựng và chia sẻ chuẩn mực, ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin, hỗ trợ giải quyết xung đột, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN, quan hệ với các đối tác…
 
1.2. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
 
Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ra đời tháng 7/1994, đến nay có 27 nước tham gia gồm 10 nước ASEAN, 10 bên đối thoại của ASEAN (Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ,  Hàn Quốc, Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Liên minh Châu Âu) và Papua Niu Ghi-nê, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Pa-kix-tan, Băng-la-đét, Xri-lan-ka, Timo-Létxtê). Việt Nam đã tham gia từ 1994 và là 1 trong những nước sáng lập ARF.
 
Về mục tiêu, phương hướng của ARF, tài liệu định hướng của ARF được ARF-2 (7/96) đã xác định:  
 
- Về mục tiêu và phương hướng: ARF là diễn đàn đối thoại và hợp tác giữa các nước tham gia về các vấn đề chính trị-an ninh khu vực; tiến triển qua 3 giai đoạn: xây dựng lòng tin (CBM), ngoại giao phòng ngừa (PD) và xem xét phương cách giải quyết xung đột; tiếp cận các vấn đề theo quan điểm an ninh toàn diện, kể cả về chính trị, kinh tế-xã hội và các vấn đề xuyên quốc gia. 
 
- Về nguyên tắc hoạt động:  ARF tiến triển tiệm tiến, với tốc độ thoải mái với các bên tham gia; mọi quyết định được thông qua dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến và đồng thuận của tất cả các nước tham gia; thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Hoạt động của ARF về cơ bản dựa trên tập quán và phương thức làm việc của ASEAN. 
 
- Về tổ chức: gồm Hội nghị Ngoại trưởng họp hàng năm (nhân dịp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN); giữa hai kỳ Bộ trưởng có Hội nghị Quan chức cao cấp (ARF-SOM) và các cuộc họp Nhóm hỗ trợ cấp làm việc (ISG và ISM) với sự tham dự của các quan chức ngoại giao và quốc phòng. Ngoài ra, ARF có thể triệu tập họp nhóm chuyên gia về những vấn đề cụ thể. Hoạt động của Diễn đàn được tiến hành trên hai kênh: chính thức và không chính thức.
 
Riêng về các Nhóm hỗ trợ cấp làm việc, cho đến nay đã bao gồm: Nhóm hỗ trợ giữa kỳ về các Biện pháp xây dựng lòng tin và Ngoại giao phòng ngừa (ISG-CBM&PD), và 03 Nhóm giữa kỳ về Cứu trợ thiên tai (ISM-DR), Chống khủng bố và Tội phạm xuyên Quốc gia (ISM-CTTC), An ninh biển (ISM-MS) và Không phổ biến và giải trừ quân bị (ISM-NPD&D). Về tần suất họp giữa 2 kỳ Hội nghị Bộ trưởng, Nhóm ISG họp 2 lần, còn các Nhóm ISM họp 1 lần.  
 
Bộ phận ARF (ARF Unit) được đặt tại Ban Thư ký ASEAN, với cán bộ của ASEAN, có nhiệm vụ làm đầu mối trao đổi thông tin trong ARF và hỗ trợ các cuộc họp của ARF; ASEAN làm Chủ tịch (theo vòng luân phiên Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN), kể từ ARF-15, lập thêm vị trí Phó chủ tịch ARF là nước Chủ tịch kế tiếp của ASEAN.
 
Các quan chức quốc phòng đang tham gia ngày càng sâu rộng vào các hoạt động của ARF. Cuộc họp Đối thoại giữa các Quan chức quốc phòng ARF (ARF-DOD) được tổ chức định kỳ bên lề các Hội nghị cấp Bộ trưởng, Quan chức cao cấp và Cuộc họp ISG. Bên cạnh đó, từ năm 2005, ARF đã lập thêm một cuộc họp mới là Hội nghị Chính sách An ninh Khu vực (ASPC) với thành phần là các quan chức cấp Thứ trưởng Quốc phòng hoặc tương đương.  
 
Hiện tại, ARF đang chuyển từ giai đoạn Xây dựng lòng tin (CBM) sang Ngoại giao phòng ngừa (PD). Tiếp theo Tuyên bố Xinh-ga-po về 15 năm ARF và Tài liệu kiểm điểm tiến trình ARF (ARF-15, Xinh-ga-po, 7/2008), Hội nghị ARF-16 (Thái Lan, 7/2009) đã thông qua Tuyên bố Tầm nhìn ARF tới năm 2020, đặt mục tiêu xây dựng một khu vực ARF hòa bình, hữu nghị và thịnh vượng vào năm 2020, và xác định các cách tiếp cận và lĩnh vực hợp tác để đạt được mục tiêu này. Trên cơ sở kết quả này, Hội nghị ARF-17 (tháng 7/2010) đã thông qua Kế hoạch hành động triển khai Tuyên bố Tầm nhìn ARF, đề ra các phương hướng xây dựng những kế hoạch, hành động cụ thể để thực hiện nội dung tuyên bố. Đồng thời, chuẩn bị cho việc thực hiện Ngoại giao phòng ngừa, Hội nghị ARF-18 tháng 7/2011 đã thông qua Kế hoạch công tác về Ngoại giao phòng ngừa (PD), bước đầu đề ra một số biện pháp có tính thử nghiệm để thực hiện ở khu vực. Đồng thời, ARF tiếp tục tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin đã thỏa thuận thông qua các hình thức như tổ chức hội thảo, khóa đào tạo... cũng như các biện pháp đan xen giữa xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa (gồm 4 biện pháp: tăng cường Vai trò Chủ tịch ARF, xuất bản Tài liệu viễn cảnh an ninh thường niên, lập Nhóm chuyên gia và những nhân vật nổi tiếng, tự nguyện thông báovề các vấn đề chính trị-an ninh liên quan)
 
Về hợp tác cụ thể, ARF đã xây dựng và thông qua các Kế hoạch hợp tác về chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, cứu trợ thiên tai, an ninh biển và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Sau thảm họa động đất-sóng thần vừa qua ở Nhật Bản, trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai đang nổi lên là lĩnh vực hợp tác được nhiều nước quan tâm. Tháng 3/2011, trong khuôn khổ ARF đã diễn ra cuộc diễn tập cứu trợ thiên tai (ARF DiREx) trên thực địa, với sự tham gia của lực lượng và phương tiện quân dân sự của nhiều nước.
 
Thách thức đối với ASEAN hiện nay là duy trì vai trò chủ đạo trong ARF, xử lý thỏa đáng đòi hỏi của các nước ngoài ASEAN về đẩy nhanh tiến độ, hợp tác theo chiều sâu và thể chế hóa Diễn đàn.
 
1.3. Uỷ ban Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hat nhân (SEANWFZ):
 
Ủy ban SEANWFZ được thành lập theo quy định tại Điều 8, Hiệp ước SEANWFZ, với đại diện là Bộ trưởng Ngoại giao các nước tham gia Hiệp ước SEANWFZ. Nhiệm vụ của giám sát việc triển khai Hiệp ước SEANWFZ và bảo đảm việc tuân thủ các điều khoản của Hiệp ước. Ủy ban SEANWFZ thường được triệu tập nhân dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN thường niên, nhưng cũng có thể họp vào thời điểm khác nếu có đồng thuận. Hội nghị Ủy ban SEANWFZ lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 7/1999. Giúp việc cho Ủy ban SEANWFZ là Ủy ban điều hành, gồm quan chức cao cấp của các nước là thành viên Hiệp ước SEANWFZ.
 
2. Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng:
 
Từ năm 1996, quan chức quốc phòng các nước ASEAN bắt đầu trao đổi về hợp tác quốc phòng trong ASEAN thông qua tham gia Nhóm công tác về Hợp tác An ninh của các quan chức cao cấp ASEAN (ASEAN SOM), đồng thời tham dự Cuộc họp các quan chức cao cấp đặc biệt hàng năm. Cuộc họp các quan chức cao cấp đặc biệt này được xem như là một diễn đàn chung giữa các quan chức ngoại giao và quốc phòng. Những hoạt động này là nền tảng cho việc các quan chức quốc phòng tham gia các hoạt động hợp tác ASEAN sau này.
 
Cùng với, sự phát triển của hợp tác ASEAN, các quan chức quốc phòng tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN.Bên cạnh tham gia Nhóm Nhóm công tác về Hợp tác An ninh, các quan chức quốc phòng cũng bước đầu tham gia vào các diễn đàn về chính trị - an ninh khu vực, điển hình là việc tổ chức các cuộc Đối thoại về Quốc phòng (ARF DOD) bên lề các Hội nghị của Diễn đàn khu vực (ARF)
 
Năm 2004, trên cơ sở các kiến nghị của các Bộ trưởng Ngoại giao, Cấp cao ASEAN 10 (Viên-chăn, 11/2004) thông qua Kế hoạch hành động Cộng đồng An ninh ASEAN, trong đó khẳng định ASEAN sẽ tiến tới triệu tập Hội nghị thường niên Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN.
 
Năm 2006, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) đã họp lần đầu tiên tại Ma-lay-xi-a, xác định một số mục tiêu cũng như phương thức hoạt động của ADMM. Theo đó, ADMM sẽ thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực thông qua đối thoại và hợp tác về quốc phòng, an ninh; định hướng cho các cơ chế đối thoại và hợp tác giữa các quan chức quốc phòng của ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối thoại; tăng cường lòng tin thông qua hiểu biết hơn nữa các thách thức quốc phòng và an ninh chung, và thông qua tăng cường tính minh bạch và cởi mở trong chính sách quốc phòng các bên; và đóng góp vào xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN.
 
Bên cạnh đó, đây là cơ chế tham vấn và hợp tác cao cấp nhất của ASEAN về quốc phòng-an ninh. ADMM cũng là một cơ chế chuyên ngành của ASEAN bổ sung cho tiến trình xây dựng cộng đồng chính trị an ninh ASEAN. ADMM là cơ chế mở, linh hoạt, hướng ra bên ngoài, tích cực can dự với các đối tác của ASEAN và ARF và sẽ họp thường niên. Đến nay, các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN đã họp được 05 Hội nghị.
 
Hội nghị ADMM lần thứ tư (10-13/5/2010, Hà Nội) thông qua 02 tài liệu về Cơ cấu và Thành phần, Thể thức và Thủ tục Hội nghị Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+); ký Tuyên bố chung Hội nghị. Hội nghị quyết định Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần đầu tiên vào tháng 10/2010.
 
2.1. Một số kết quả hợp tác:
 
Sau 6 năm thành lập, ADMM đã đạt được những bước phát triển đáng ghi nhận trong nỗ lực xây dựng lòng tin, củng cố đoàn kết, thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Hợp tác quốc phòng-quân sự đa phương trong ASEAN ngày càng đi vào thực chất trong việc cùng nhau liên kết và huy động các nguồn lực nhằm đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống của khu vực. Những kết quả đó thể hiện trên một số mặt sau:
 
Thứ nhất, quân đội các nước ASEAN đang triển khai các hình thức hợp tác thiết thực, cụ thể phù hợp với các nhu cầu đòi hỏi chung của khu vực: như giao lưu các cấp, đào tạo nhân lực, phối hợp tuần tra chung trên biển, trên đất liền, thiết lập đường dây nóng giữa các đơn vị hải quân và biên phòng, trao đổi thông tin tình báo, hợp tác chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và cứu hộ, cứu nạn trên biển và trên đất liên và hướng tới các hình thức diễn tập mô phỏng chung về tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và giảm nhẹ thiên tai để tăng cường và sẵn sàng ứng phó với các tình huống khẩn cấp do tham khảo thiên tai gây ra.
 
Thứ hai, ADMM xây dựng được một số khuôn khổ pháp lý hướng tới hợp tác trên thực tế trong một số lĩnh vực ưu tiên, bao gồm: cứu trợ thảm họa, gìn giữ hòa bình và công nghiệp quốc phòng. ADMM-3 (2009) thông qua Tài liệu khái niệm về "Sử dụng nguồn lực quân sự ASEAN trong hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa"; Tài liệu khái niệm về "Hợp tác giữa các cơ sở quốc phòng và các tổ chức xã hội dân sự ASEAN về an ninh phi truyền thống. ADMM-5 (2011), ADMM thông qua Tài liệu khái niệm thành lập mạng lưới các trung tâm giữ gìn hòa bình ASEAN; Tài liệu khái niệm về thiết lập cơ chế cộng tác về công nghiệp quốc phòng ASEAN.
 
Thứ ba, trong khuôn khổ ADMM, ngoài các hội nghị làm công tác chuẩn bị cho ADMM như Hội nghị Nhóm làm việc và Hội nghị các quan chức quốc phòng cao cấp, thì mạng lưới kênh II của các Viện nghiên cứu Quốc phòng và An ninh ASEAN (NADI) cũng đã được thành lập năm 2007 nhằm hỗ trợ cho tiến trình ADMM. NADI được thiết lập để tạo kênh trao đổi giữa các học giả, nhà nghiên cứu các nước ASEAN về các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh và đưa ra các khuyến nghị lên ADMM, đồng thời tăng cường và thúc đẩy quan hệ nghiên cứu quốc phòng giữa các nước ASEAN. NADI-3 tổ chức tháng 4/2010 tại Việt Nam đã đưa ra đánh giá các vấn đề an ninh và hợp tác khu vực và khuyến nghị tăng cường hợp tác quốc phòng quân sự.
 
Thứ tư, bên cạnh kênh hợp tác quốc phòng, kênh hợp tác quân sự cũng được triển khai toàn diện ở nhiều cấp độ khác nhau. Tư lệnh Quốc phòng, Tư lệnh Lục quân, Hải Quân, Không quân các nước ASEAN gặp nhau trong các hội nghị được tổ chức hàng năm hoặc định kỳ như Hội nghị không chính thức Tư lệnh Lực lượng Quốc phòng các nước ASEAN (từ năm 2001), Hội nghị Tư lệnh Lục quân (từ năm 2000); Hội nghị Tư lệnh Hải quân (từ năm 2001); Hội nghị Tư lệnh Không quân ASEAN (từ năm 2004); Hội nghị những người đứng đầu ngành quân y ASEAN (từ năm 2011). Bên cạnh đó còn có Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan Tình báo Quân đội các nước ASEAN và Giải bắn súng quân dụng các nước ASEAN (AARM). Sự phát triển, mở rộng giao lưu và hợp tác trên lĩnh vực quân sự đã góp phần tăng cường xây dựng lòng tin, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau và tình đoàn kết giữa các lực lượng vũ trang ASEAN. Trong bối cảnh khu vực đang phải đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng và phức tạp, các Hội nghị quân sự cũng đang từng bước tập trung nỗ lực để đối phó hiệu quả với các thách thức này.
 
Thứ năm, hợp tác với các nước ngoài khu vực, ASEAN đã tăng cường hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) thông qua Hội nghị chính sách an ninh ARF (từ 2004) và Đối thoại các quan chức quốc phòng ARF. Các quan chức quốc phòng cũng tích cực tham dự và đóng góp cho các Hội nghị giữa kỳ khác nhau của ARF. Sự tham gia của các quan chức quốc phòng trong diễn đàn ARF ngày càng được coi trọng, đóng góp và bổ sung tích cực cho diễn đàn này.
 
Hội nghị Quốc phòng ASEAN mở rộng
 
Ngay từ đầu, trong Tài liệu khái niệm thành lập ADMM, ADMM được xác định là cơ chế mở, linh hoạt, hướng ra bên ngoài, tích cực can dự với các đối tác của ASEAN và ARF. Cùng với nhận thức, an ninh khu vực ASEAN gắn liền với an ninh Châu Á Thái Bình Dương cũng như an ninh toàn cầu, do đó việc mở rộng hợp tác quốc phòng an ninh giữa ASEAN với các đối tác, đối thoại đầy đủ của ASEAN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là một đòi hỏi khách quan và cấp bách, bảo đảm cho mọi thành viên ASEAN được sống trong môi trường hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
 
Ý tưởng về cơ chế Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng được ASEAN đưa ra từ Hội nghị ADMM lần thứ nhất năm 2006 tại Ma-lai-xia, tiếp tục được bổ sung qua ADMM-2, ADMM-3 và được hiện thực hóa tại ADMM-4 tại Hà Nội với việc thông qua Tài liệu khái niệm: Cơ cấu và Thành phần; Thể thức và Thủ tục, hoàn tất cơ sở pháp lý cho việc hình thành cơ chế ADMM mở rộng và giao Việt Nam đăng cai Hội nghị đầu tiên trong năm Việt Nam làm chủ tịch ASEAN.
 
Về mục tiêu, ADMM+ xác định rõ 4 mục tiêu lớn gồm: thúc đẩy hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực; thúc đẩy ADMM+ thành một diễn đàn hữu ích và có hiệu quả hợp tác về các vấn đề quốc phòng và an ninh nhằm đóng góp hữu ích cho hòa bình và an ninh của khu vực; tăng cường hữu nghị, tin tưởng lẫn nhau thông qua đối thoại và trao đổi nhiều hơn giữa các cơ sở quốc phòng ADMM+; thúc đẩy hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực thông qua thực hiện hợp tác cụ thể và thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề quốc phòng an ninh cùng quan tâm, trong đó hướng tới xây dựng năng lực, phát triển chuyên môn, và tăng cường phối hợp trong các lĩnh vực có thể đóng góp cho hòa bình và an ninh khu vực;
 
 Về cơ cấu và thành phần: ngoài 10 nước ASEAN, các đối tác tham gia ADMM+ phải hội đủ 3 tiêu chí cơ bản: Thứ nhất, là đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN (đã ký Hiệp ước Thân thiện và hợp tác ở ĐNÁ); Thứ hai, có quan hệ quốc phòng thực chất với các nước ASEAN; và Thứ ba, có khả năng hợp tác với ADMM để tăng cường an ninh khu vực. Theo tinh thần đó, ADMM+ lần thứ nhất gồm 10 nước ASEAN và 8 nước đối tác đối thoại của ASEAN là: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ốt-xrây-li-a và Niu Di-lân.
 
ADMM+ có những đặc điểm nổi bật, tạo nên sự khác biệt của riêng mình. Trước hết, ADMM+ có thành phần đa dạng với sự chênh lệch về trình độ phát triển và tiềm lực quốc phòng giữa các thành viên. ADMM+ bao gồm một số nước có tiềm lực mạnh nhất thế giới đồng thời có những nước có tiềm lực quốc phòng vào loại trung bình và yếu nhưng hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng.
 
Hai là, ADMM+ là một diễn đàn xây dựng và tăng cường lòng tin giữa các thành viên. Diễn đàn quan trọng này sẽ bổ sung cho các diễn đàn khác, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), các tiến trình ASEAN+ và đối thoại Shangri La, đóng góp một cách có hiệu quả cho tiến trình xây dựng lòng tin và duy trì hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực.
 
Ba là, ADMM+ là một diễn đàn công khai và minh bạch. Tại ADMM+, các nước công khai những gì mình mong muốn đối với khu vực. Các bên cũng sẽ đưa ra quan điểm và biện pháp thực hiện của mình. Những quan điểm và biện pháp đó có thể có sự khác biệt xuất phát từ nhận thức và khả năng của mỗi nước, song thông qua đối thoại, sẽ tìm ra giải pháp phù hợp để xây dựng lòng tin giữa các quốc gia.
 
Về nguyên tắc, cơ chế vận hành, định hướng hợp tác, Hội nghị ADMM+ lần đầu tiên đã thống nhất được những vấn đề cơ bản như: Cùng nhau hợp tác vì hòa bình, an ninh và thịnh vượng chung trong khu vực; do ASEAN đóng vai trò trung tâm, hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp, tham vấn và đồng thuận, với nhịp độ thỏa mãn với tất cả các nước thành viên; ADMM+ họp 3 năm một lần;
 
Nhất trí thiết lập các cơ chế hỗ trợ, như Hội nghị quan chức quốc phòng cao cấp các nước ASEAN mở rộng (ADSOM+, cấp thứ trưởng), Hội nghị Nhóm công tác của ADSOM+ (cấp các cơ quan chính sách). Các cơ chế này sẽ họp hàng năm để duy trì động lực và triển khai hợp tác dựa trên các quyết định và thỏa thuận của Bộ trưởng.
 
Xác định 5 lĩnh vực ưu tiên hợp tác ban đầu, gồm: hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa; an ninh biển; quân y; chống khủng bố và hoạt động gìn giữ hòa bình.
 
3. Hợp tác trong lĩnh vực công an:
 
Chỉ ít năm sau khi được thành lập, ASEAN đã xác định đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia là một trong những trọng tâm hợp tác. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN ký năm 1976 (Bali Concord I) kêu gọi tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên và với các tổ chức quốc tế nhằm ngăn chặn và chấm dứt nạn buôn bán ma túy và nghiên cứu khả năng hợp tác tư pháp bao gồm việc xây dựng một hiệp ước ASEAN về dẫn độ.
 
Tuy nhiên, phải đến năm 1997, ASEAN mới thiết lập cơ chế Hội nghị Bộ cấp trưởng về hợp tác trong lĩnh vực này. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia lần thứ nhất (1st AMMTC) họp vào tháng 12/1997 tại Manila đã ra Tuyên bố ASEAN về Chống tội phạm xuyên quốc gia (12/1997), nhấn mạnh quyết tâm chính trị của ASEAN đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia thông qua các biện pháp thể chế và hợp tác cụ thể, như trao đổi và chia sẻ thông tin, ký kết các hiệp ước song phương và hiệp định tương trợ, thúc đẩy quan hệ với các nước đối tác, Liên hợp quốc và các tổ chức khác…   
 
Về hợp tác, ASEAN đã xây dựng và thông qua Kế hoạch hành động ASEAN về đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia (năm 1999), cùng Kế hoạch công tác để triển khai cụ thể (năm 2002); trong đó xác định 08 lĩnh vực ưu tiên là: (i) khủng bố; (ii) buôn bán ma túy; (iii) buôn bán người; (iv) rửa tiền; (v) buôn bán vũ khí; (vi) cướp biển: (vii) tội phạm kinh tế; và (viii) tội phạm mạng..
 
3.1. Về cơ chế hợp tác:
 
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC) đóng vai trò là cơ chế bao trùm của ASEAN trong lĩnh vực này. Giúp việc trực tiếp cho AMMTC là Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC). Ngoài ra, tham gia hợp tác trong lĩnh vực này còn có Hội nghị Tổ chức Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANPOL), Hội nghị Các quan chức cao cấp ASEAN về Ma túy (ASOD), Hội nghị Tổng Vụ trưởng Lãnh sự các nước ASEAN (DGICM) và Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN về tư pháp (ASLOM). Về cụ thể:
 
- Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC):
 
Hội nghị AMMTC họp với tần suất 2 năm/ lần, là cơ quan định ra các quyết sách và điều phối hợp tác ASEAN, giữa ASEAN với các đối tác về chống tội phạm xuyên quốc gia. Kể từ Hội nghị lần đầu tiên vào năm 1997, đến hết năm 2011 đã diễn ra 8 Hội nghị AMMTC. Dưới AMMTC là cơ chế Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC), có trách nhiệm thực hiện các chính sách và kế hoạch công tác do AMMTC thông qua.
 
- Tổ chức Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANPOL):
 
ASEANPOL tạo điều kiện cho các cơ quan thực thi pháp luật về đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia hợp tác trực tiếp với nhau, thông qua các biện pháp như chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nghiệp vụ, thực thi luật pháp, chống tội phạm hình sự và tội phạm xuyên quốc gia, thiết lập hệ thống thông tin riêng, kết nối với hệ thống thông tin của Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol). Ngoài ra, ASEANPOL đã thành lập các ủy ban đặc biệt về chống buôn bán ma túy, chống buôn bán vũ khí, tội phạm tài chính và kinh tế, dẫn độ và bàn giao tội phạm…
 
-Hội nghị Quan chức cao cấp ASEAN về Ma túy (ASOD):
 
ASOD được thành lập vào năm 1984 và họp định kỳ hàng năm. Các Hội nghị ASOD có nội dung chính là chia sẻ, cập nhật thông tin về tình hình sử dụng và buôn bán ma túy ở các nước thành viên, từ đó bàn thảo và xây dựng các chính sách phù hợp ngăn chặn và kiểm soát nạn buôn bán, sử dụng ma túy. Trực thuộc ASOD có 4 nhóm công tác về: giáo dục phòng ngừa ma túy; chữa trị và phục hồi; thực thi pháp luật; nghiên cứu; tương ứng với đó là 4 trung tâm đào tạo:
 
- Trung tâm ASEAN về Thực thi pháp luật về ma túy, đặt tại Băng-cốc (ASEAN Centre for Narcotics Law Enforcement)
 
- Trung tâm ASEAN về Giáo dục phòng ngừa ma túy, đặt tại Ma-ni-la (ASEAN Centre for Preventive Drug Education)
 
- Trung tâm Đào tạo ASEAN về Phát hiện các chất ma túy trong cơ thể người, đặt tại Xing-ga-po (ASEAN Training Centre for the Detection of Drugs in Body Fluids)
 
- Trung tâm Đào tạo ASEAN về Chữa trị và Phục hồi đặt tại Kuala Lumpur (ASEAN Training Centre for Treatment and Rehabilitation)
 
3.2. Hợp tác trong một số lĩnh vực cụ thể:
 
Triển khai quyết định của AMMTC-7 (11/2009), SOMTC-10 (10/2010) đã thông qua Kế hoạch Công tác triển khai Kế hoạch Hành động ASEAN về đấu tranh chống Tội phạm xuyên quốc gia giai đoạn 2010-2012, đề ra các phương hướng và biện pháp hợp tác cụ thể trong 8 lĩnh vực ưu tiên đã xác định, tập trung vàochia sẻ thông tin, hợp tác tư pháp và thực thi pháp luật, xây dựng năng lực và hợp tác với bên ngoài.
 
Chống khủng bố:
 
Sau sự kiện 11/9, trước nguy cơ khủng bố gia tăng ở khu vực, đặc biệt sau các vụ đánh bom ở In-đô-nê-xia (2002), ASEAN đã đẩy mạnh hợp tác chống khủng bố. Cấp cao ASEAN-8 (2002) ra Tuyên bố về Hợp tác chống khủng bố, khẳng định quyết tâm của cả khối “ngăn ngừa, đấu tranh và trấn áp hoạt động của các nhóm khủng bố trong khu vực.” Chống khủng bố đã được xác định là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong Kế hoạch tổng thể thực hiện APSC.
 
Về cơ chế, Hội nghị AMMTC chịu trách nhiệm chính trong ASEAN về chống khủng bố. Hội nghị AMMTC (5/2002) họp phiên đặc biệt về chống khủng bố, thông qua Chương trình công tác triển khai Kế hoạch hành động về chống tội phạm xuyên quốc gia, xác định nhiều hoạt động hợp tác như trao đổi thông tin, pháp lý, thực thi pháp luật, huấn luyện, xây dựng thể chế và hợp tác với bên ngoài.
 
Đặc biệt, tháng 1/2007, Lãnh đạo ASEAN đã ký Công ước ASEAN về Chống khủng bố, tạo khuôn khổ pháp lý cho hợp tác khu vực trong lĩnh vực này. Công ước ASEAN về chống khủng bố đã có hiệu lực từ 27/5/2011 sau khi sáu nước ASEAN phê chuẩn gồm: Xing-ga-po, Thái Lan, Phi-líp-pin, Cam-pu-chia, Việt Nam và Bru-nây. Để triển khai, ASEAN đã xây dựng và thông qua Kế hoạch hành động toàn diện về Chống khủng bố.
 
Chống buôn bán người:
 
Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN về Tội phạm xuyên quốc gia lần thứ 9 (SOMTC) (Nay Pyi Taw, 6/2009) đề xuất soạn thảo Công ước ASEAN về chống buôn bán người. Thực hiện quyết định của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC) lần thứ 7 (Phnom Penh, 11/2009), chuyên gia các nước đang nghiên cứu tính khả thi của việc soạn thảo Công ước. Đến nay, các nước ASEAN đã tiến hành nhiều cuộc họp Nhóm Công tác về Chống buôn bán người với mục tiêu xây dựng các thành tố của Công ước và cách thức để nội dung Công ước phù hợp với các quy định của nội luật các nước.
 
Sổ tay ASEAN về Hợp tác quốc tế trong các vụ việc buôn bán người được đưa ra tại SOMTC lần thứ 10 (10/2010) nhằm giúp các nhà điều tra, thi hành pháp luật và các cơ quan chống tội phạm hình sự trong ASEAN giải quyết các vụ việc buôn bán người. Tài liệu cung cấp hướng dẫn hoạt động chống buôn bán người và nhằm củng cố mạng lưới hợp tác và tương trợ tư pháp trong khu vực.
 
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 18 (5/2011) đã ra Tuyên bố chung về tăng cường hợp tác Chống buôn bán người ở Đông Nam Á.
 
Báo cáo Tiến độ của ASEAN về Ứng phó của lực lượng chống tội phạm hình sự với nạn buôn bán người được đưa ra tại Cuộc họp SOMTC-11 (7/2011). Báo cáo Tiến độ kiểm điểm các thành tựu của các quốc gia thành viên ASEAN trong xử lý các vụ việc buôn bán người trong thập kỷ vừa qua và đánh giá các thách thức/nguy cơ.
 
Các nước ASEAN nhất trí về nguyên tắc việc cần sớm xây dựng Công ước ASEAN về Chống buôn bán người nhằm triển khai Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-18. Theo đó, các nước nhất trí sẽ tiếp tục nghiên cứu kỹ và thận trọng tính khả thi xây dựng Công ước.
 
Chống buôn bán ma túy
 
ASEAN sớm nhấn mạnh nhu cầu hợp tác khu vực chống sử dụng và buôn bán ma túy. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN 1976 kêu gọi “tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên và với các tổ chức quốc tế liên quan trong việc ngăn chặn và loại trừ việc sử dụng và buôn bán ma túy”. Tuyên bố này dẫn tới việc ASEAN thông qua Tuyên bố ASEAN về các Nguyên tắc chống sử dụng ma túy. Tuyên bố này cung cấp khuôn khổ cho việc thông qua một chương trình hành động hợp tác chống sử dụng ma túy.
 
Nhu cầu thiết lập một cách tiếp cận chung của khu vực trong việc kiểm soát và ngăn ngừa sử dụng ma túy được củng cố với việc thông qua Chiến lược và Chính sách khu vực ASEAN về Ngăn ngừa và Kiểm soát việc Sử dụng và Buôn bán ma túy 1984. Tài liệu ghi nhận tác động của việc sử dụng và buôn bán ma túy lên an ninh, hòa bình, ổn định của quốc gia. Tài liệu còn kêu gọi các quốc gia ASEAN có quan điểm, cách tiếp cận và chiến lược thống nhất; điều phối hiệu quả ở mức độ quốc gia, khu vực và quốc tế; và phối hợp với các tổ chức phi chính phủ (NGOs) trong nỗ lực chung loại trừ việc sử dụng ma túy.
 
Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức 1997 đã ủng hộ ý tưởng “một khu vực Đông Nam Á không sản xuất, tàng trữ, buôn bán và sử dụng ma túy”. Tại AMM-31 (7/1998), Ngoại trưởng các nước ASEAN đã ra Tuyên bố chung về ASEAN không ma túy trước 2020. 7/2000, Ngoại trưởng các nước ASEAN quyết định đẩy nhanh mục tiêu từ 2020 xuống thành 2015.
 
Về cơ chế, nhiều cơ quan của ASEAN tham gia vào nỗ lực hợp tác ASEAN chống ma túy bao gồm: AMMTC, ASOD, AFMM, và Ủy ban ASEAN về Văn hóa và Thông tin. 
 
Cụ thể, hiện ASOD đang triển khai Kế hoạch hành động ba năm về Kiểm soát ma túy (thông qua tại Cuộc họp ASOD-17, 10/1994), bao gồm 4 lĩnh vực ưu tiên: giáo dục ngăn chặn ma túy; điều trị và tái hòa nhập; thực thi pháp luật; và nghiên cứu. ASOD đã tổ chức nhiều hội thảo giáo dục về ma túy, khóa đào tạo cho các cơ quan thực thi pháp luật…
 
AMMTC-7 (2009) đã thông qua Kế hoạch Công tác ASEAN về phòng, chống sản xuất, buôn bán và sử dụng ma túy 2009-2015. Bản Kế hoạch Công tác là nền tảng để xây dựng các tài liệu khái niệm và dự án hợp tác cấp khu vực trong lĩnh vực này. Ngoài ra, tài liệu này cũng cung cấp chỉ dẫn cho hợp tác giữa ASOD và các nước đối thoại.
 
Để đối phó với các thách thức đang gia tăng trong khu vực về kiểm soát ma túy, ASOD đang cố gắng tăng cường vai trò trong việc ra chính sách về các vấn đề liên quan đến ma túy. Ngoài ra, sự phối hợp giữa ASOD và SOMTC đang ngày càng được tăng cường. Các nỗ lực nhằm hài hòa nội luật các nước về chống buôn bán ma túy đang được thúc đẩy.
 
Quản lý biên giới
 
Hội nghị Tổng Vụ trưởng Lãnh sự các nước ASEAN (DGICM) bàn về hợp tác quản lý biên giới như: kiểm tra thị thực, xuất-nhập cảnh và ngăn ngừa tội phạm xuyên quốc gia. Ngoài ra, Diễn đàn thông tin tình báo ASEAN (AIIF) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chia sẻ thông tin giữa các nước ASEAN.
 
Hội nghị DGICM-15 (10/2011) đã thảo luận các định hướng tương lai/chiến lược nhằm tăng cường hợp tác về xuất-nhập cảnh và các vấn đề xuyên biên giới.
 
ASEAN-EU đã tiến hành dự án thí điểm Chương trình quản lý biên giới và xuất-nhập cảnh tại cửa khẩu Bavet – Mộc Bài (Cam-pu-chia – Việt Nam). Dự án này đã kết thúc vào tháng 6/2011. Hiện nay, ASEAN đang cố gắng kêu gọi EU tiếp tục dự án này.
 
Dẫn độ
 
Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) lần thứ 6 đồng ý thành lập một nhóm công tác về xây dựng Hiệp định Dẫn độ ASEAN. Nhóm công tác của Quan chức pháp luật cao cấp các nước ASEAN (ASLOM) về vấn đề này đã nhóm họp được 3 cuộc. Cuộc họp trao đổi về khả năng xây dựng một hiệp định ràng buộc về pháp lý về dẫn độ.
 
4. Hợp tác trong lĩnh vực tư pháp:
 
Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (ALAWMM) được thành lập năm 1986, họp với tần suất 3 năm/lần. Các lĩnh vực hợp tác cụ thể bao gồm: tương trợ tư pháp trong các vấn đề hình sự và dân sự, dẫn độ, chống tội phạm xuyên quốc gia… Giúp việc cho các Bộ trưởng có cơ chế Hội nghị Quan chức cao cấp Tư pháp ASEAN (ASLOM).
 
Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa các quốc gia ASEAN (MLAT)
 
Cho tới nay, đã có 9 quốc gia thành viên ASEAN phê chuẩn MLAT và Thái Lan đang trong quá trình phê chuẩn Hiệp định. ASEAN sẽ thảo luận khả năng xây dựng một Hiệp định ASEAN về vấn đề này sau khi cả 10 quốc gia thành viên đã phê chuẩn MLAT.
 
Ma-lai-xia, với tư cách Ban thư ký MLAT, đã thường xuyên tổ chức các hội thảo đào tạo cho các cơ quan thi hành pháp luật và các chuyên gia pháp lý liên quan đến việc thực hiện MLAT.
 
5. Hợp tác về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người:
 
Trong những năm qua, ASEAN luôn dành nhiều quan tâm tới việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, và đã có nhiều biện pháp triển khai hợp tác trong lĩnh vực này, tập trung vào các đối tượng dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, lao động nhập cư...
 
Với việc Hiến chương ASEAN được ký kết, cùng với hợp tác ASEAN nói chung, hợp tác về nhân quyền được nâng lên một tầm mới. Hiến chương ASEAN đã xác định bảo vệ và thúc đẩy quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc chỉ đạo hoạt động của ASEAN, theo đó đã quy định việc thành lập cơ quan nhân quyền ASEAN.
 
Triển khai quy định của Hiến chương, ASEAN đã lập Nhóm đặc trách cao cấp để soạn thảo Quy chế hoạt động của Cơ quan nhân quyền ASEAN. Sau hơn một năm đàm phán và soạn thảo, Nhóm Đặc trách cao cấp đã hoàn tất dự thảo Quy chế và đệ trình lên các Ngoại trưởng ASEAN, đồng thời kiến nghị tên gọi chính thức của cơ quan là Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR). 
 
Sau khi Quy chế hoạt động được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 42 (tháng 7/2009), AICHR đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động dịp Cấp cao ASEAN 15 (Thái Lan, tháng 10/2009), với tư cách là cơ quan giữ vai trò bao trùm về hợp tác nhân quyền ở khu vực. Về cụ thể:
 
- Về mục đích và nguyên tắc, AICHR hướng tới hợp tác ASEAN về thúc đẩy tôn trọng nhân quyền trên cơ sở tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương ASEAN; tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ các nước; không can thiệp nội bộ; tôn trọng quyền của mỗi nước được lựa chọn con đường phát triển của mình; tôn trọng các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế về nhân quyền, đi đôi với không sử dụng tiêu chuẩn kép và không chính trị hóa vấn đề nhân quyền; bảo đảm cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ; phù hợp với điều kiện đặc thù của khu vực, nhất là hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, tôn giáo của từng nước và từng dân tộc.
 
- Về tính chất và chức năng, đây sẽ là cơ quan mang tính chất liên Chính phủ, hoạt động theo nguyên tắc tham vấn và đồng thuận, phát triển tiệm tiến với bước đi phù hợp và được các nước thành viên chấp thuận; không được quyền xem xét, phê phán hay chỉ trích tình hình nhân quyền của các nước thành viên; chủ yếu hợp tác chia sẻ thông tin, tuyên truyền phổ biến và nâng cao nhận thức về nhân quyền, hỗ trợ xây dựng năng lực. Các nước sẽ hợp tác hướng tới xây dựng chiến lược chung của khu vực về nhân quyền và dự thảo một Tuyên bố ASEAN về nhân quyền, trong đó phản ánh được các giá trị, truyền thống và đặc thù của ASEAN.
 
- Về cơ cấu và thành phần, AICHR sẽ gồm đại diện Chính phủ các nước ASEAN (không phải cá nhân); được bổ nhiệm với thời hạn 3 năm (vẫn ở tại nước mình), chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN và họp định kỳ 2 lần/năm, mỗi lần không quá 5 ngày và có thể họp thêm khi cần theo chỉ thị hoặc khi có đồng thuận của các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN.
 
Kể từ khi đi vào hoạt động, AICHR đã tập trung vào một số công tác như: kiện toàn bộ máy hoạt động, xây dựng quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan liên quan của ASEAN, trao đổi và đối thoại với các tổ chức trong và ngoài khu vực, tiến hành một số hoạt động nghiên cứu chuyên đề về những vấn đề như bình đẳng giới, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, sức khỏe bà mẹ, di dân. Đặc biệt, AICHR đã hoàn tất và trình các Ngoại trưởng đã thông qua Danh mục các hoạt động ưu tiên trong 2 năm 2010-2011, và đã hoàn chỉnh Kế hoạch công tác 5 năm cùng dự toán ngân sách thực hiện. 
 
Bên cạnh đó, các nhà Lãnh đạo ASEAN thông qua Tuyên bố ASEAN về nhân quyền, do AICHR soạn thảo, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 21 (Phnôm Pênh, Căm-pu-chia, 18/11/2012).
Nguồn: http://asean.mofa.gov.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 10 đánh giá

Xếp hạng: 1.1 - 10 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây